Nguồn: Daniella Klebaner et al. (2025). Radiotherapy and Oncology, 207, 110884.
Bối cảnh và Mục tiêu nghiên cứu
- Trước năm 2020, ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ thường được điều trị bằng hóa xạ trị tiền phẫu (CRT) sau đó là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ mạc treo trực tràng (Total Mesorectum Excision – TME) và hóa trị bổ trợ. Mặc dù đạt được kết quả kiểm soát tại chỗ tốt, tỷ lệ điều trị thất bại do di căn xa có thể vượt quá 25%.
- Bệnh nhân ung thư trực tràng có đáp ứng lâm sàng hoàn toàn (cCR) sau điều trị tân bổ trợ có thể tránh được phẫu thuật TME thông qua chiến lược bảo tồn cơ quan (Organ Preservation – OP). Sau TME, người bệnh có thể gặp phải tình trạng rối loạn chức năng tình dục, tiết niệu, ruột và/hoặc hậu môn nhân tạo tạm thời/vĩnh viễn, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống.
- Điều trị tân bổ trợ toàn bộ (Total Neoadjuvant Treatment – TNT) có thể tăng cường đáp ứng khối u, tăng khả năng đủ điều kiện bảo tồn cơ quan và giảm thiểu nguy cơ bệnh di căn xa. Vẫn còn nhiều tranh luận về trình tự và thành phần tối ưu của TNT.
- Thử nghiệm SHORTFOX đã được thực hiện nhằm xác định liệu xạ trị liệu trình ngắn (SCRT) với 25 Gy/5 phân liều, tăng cường tại u, mạc treo trực tràng và hạch di căn 5 Gy/1 phân liều, sau đó là tám chu kỳ hóa trị bộ ba FOLFOXIRI có làm tăng tỷ lệ cCR ở bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ hay không, với giả thuyết rằng phương pháp này sẽ đạt tỷ lệ cCR cao hơn so với đối chứng lịch sử (~20%) và cho phép nhiều bệnh nhân theo đuổi chiến lược bảo tồn cơ quan.
Phương pháp
- Nghiên cứu thử nghiệm giai đoạn II một nhánh được thực hiện tại một trung tâm ung thư được chỉ định bởi NCI.
- Đối tượng tham gia: Người trưởng thành có chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến trực tràng được xác định bằng sinh thiết, cần TME, đủ điều kiện điều trị tân bổ trợ (T3-4 hoặc N+) hoặc cần phẫu thuật cắt cụt trực tràng đường bụng – tầng sinh môn (APR) (Khối u T2N0 đoạn thấp).
- Quy trình chẩn đoán bao gồm khám lâm sàng và thăm trực tràng (DRE), nội soi, CT ngực/bụng/khung chậu và MRI vùng chậu.
- Điều trị bao gồm:
- Xạ trị 5 phân liều 5 Gy, 1 phân liều/ngày, với một liều tăng cường tuần tự 5 Gy/1 phân liều (tổng cộng 30 Gy trong 6 phân liều) tới khối u nguyên phát, mạc treo trực tràng và các hạch di căn.
- Hóa trị bắt đầu từ hai đến bốn tuần sau khi kết thúc xạ trị và bao gồm tám chu kỳ FOLFOXIRI/mFOLFIRINOX.
- Đánh giá đáp ứng:
- Bệnh nhân được đánh giá giữa liệu trình bằng nội soi và MRI vào khoảng chu kỳ 4 và 5 của hóa trị.
- Đáp ứng lâm sàng được đánh giá sau 8 (+/- 4) tuần sau khi hoàn thành hóa trị.
- Chỉ tiêu nghiên cứu chính: cCR sau TNT, được định nghĩa là không có khối u tồn dư trên nội soi đại tràng sigma, thăm trực tràng và không có khối u tồn dư hoặc các hạch bạch huyết nghi ngờ trên MRI (mrTRG1-2).
- Chỉ tiêu nghiên cứu phụ: Tái phát tại chỗ ở bệnh nhân bảo tồn cơ quan, sống thêm không bệnh (DFS), sống thêm không cần TME, và sống thêm toàn bộ (OS).
- Các tác dụng phụ (AEs) được báo cáo sử dụng NCI CTCAE, phiên bản 5.0.
Một số kết quả đáng chú ý
- Từ năm 2020 đến 2023, 37 bệnh nhân đã được điều trị với phác đồ nghiên cứu.
- Đặc điểm bệnh nhân: Đa số là nam (65%), da trắng (70%), tuổi trung bình 52 (IQR: 44-61); 38% được chẩn đoán trước 50 tuổi. Phần lớn (73%) có ít nhất một đặc điểm nguy cơ cao (cT4, xâm lấn mạch máu ngoài thành [EMVI], N2, diện cắt vòng quanh bị đe dọa, hạch thành bên chậu dương tính).
- Tất cả bệnh nhân đều hoàn thành liệu trình xạ trị dự kiến, sử dụng IMRT trong 35 trường hợp (95%). 30 bệnh nhân (81%) nhận đủ 8 chu kỳ FOLFOXIRI.
- Kết quả chỉ tiêu nghiên cứu chính: 9/37 (24%, 95% CI 12-41) bệnh nhân có cCR trên cả nội soi và MRI. 14/37 (38%) bệnh nhân có cCR chỉ trên nội soi.
- Bảo tồn cơ quan (OP): 18 bệnh nhân (49%) đã theo đuổi OP. Trong số 9 bệnh nhân có cCR trên cả nội soi và MRI, tất cả đều theo đuổi OP. 4 trong số này bị tái phát tại chỗ sau đó.
- Trong số 14 bệnh nhân có cCR chỉ trên nội soi, 9 (64%) đã theo đuổi OP. 5 trong số này bị tái phát tại chỗ sau đó.
- Tại thời điểm hai năm kể từ khi bắt đầu xạ trị, 9 bệnh nhân (24%, 95% CI 12-41) đã đạt được OP.
- Sống thêm không TME sau hai năm là 26% (12,5-42).
- Trong phân tích tương quan giữa một số đặc điểm lâm sàng – bệnh học và kết quả điều trị cho thấy một số yếu tố có liên quan có ý nghĩa với khả năng không đạt được OP:
- Tuổi dưới 50 và bệnh T4.
- Kết quả đánh giá giữa liệu trình: Những bệnh nhân đạt OP ít có khả năng có hạch dương tính dai dẳng, EMVI và khối u còn nhìn thấy được qua nội soi.
- Kết quả sống thêm:
- DFS sau hai năm cho toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu là 77% (95% CI 59-88%).
- OS sau hai năm là 97% (95% CI 82-100).
- Không có bệnh nhân nào theo đuổi OP (bất kể có tái phát tại chỗ sau đó hay không) xuất hiện di căn xa.
- Hạch dương tính dai dẳng, EMVI và mrTRG 4 hoặc 5 tại thời điểm đánh giá giữa điều trị đi kèm với kết quả DFS tồi hơn.
- Tác dụng phụ (AEs):
- AEs cấp độ 3 trở lên liên quan đến hóa trị xảy ra ở 51% (N=19) bệnh nhân.
- AEs cấp độ 3 trở lên liên quan đến xạ trị xảy ra ở 43% (N=16) bệnh nhân.
- Các AEs cấp độ 3 không liên quan đến huyết học phổ biến nhất là các triệu chứng trực tràng hoặc tiêu hóa (tiêu chảy, đau trực tràng, xuất huyết trực tràng, viêm trực tràng).
Thảo luận
- SHORT-FOX là nghiên cứu tiến cứu đầu tiên về bảo tồn cơ quan trong ung thư trực tràng kết hợp xạ trị liệu trình ngắn với FOLFOXIRI.
- Trong một nhóm bệnh nhân ung thư trực tràng nguy cơ cao, SCRT được tăng cường liều và sau đó là hóa trị bộ ba giúp bảo tồn cơ quan ở khoảng một phần tư bệnh nhân và sống thêm không TME sau hai năm là 26%.
- Kết quả OP trong nghiên cứu này thấp hơn đáng kể so với nghiên cứu OPRA (Nhánh sử dụng hóa xạ trị liệu trình dài dẫn đầu) (53% sống thêm không TME sau 3 năm), được cho là do nhóm bệnh nhân trong SHORT-FOX có tỷ lệ các đặc điểm nguy cơ cao hơn (T4, bệnh hạch).
- Không có bệnh nhân nào có khối u T4 đạt được bảo tồn cơ quan, phù hợp với các dữ liệu hồi cứu và gợi ý rằng khối u T4 có thể được điều trị tốt nhất với xạ trị phân liều quy ước.
- Không có bệnh nhân nào dưới 50 tuổi đạt được bảo tồn cơ quan; điều này có thể liên quan đến tính chất ác tính của ung thư trực tràng khởi phát sớm.
- Các phát hiện cho thấy sự không nhất quán giữa đánh giá MRI và nội soi trong việc xác định cCR. 9 bệnh nhân có cCR trên nội soi nhưng không có cCR trên MRI đã trì hoãn phẫu thuật; bốn người cuối cùng đã đạt cCR muộn mà không cần TME.
- Kết quả cho thấy sự tồn tại của hạch dương tính, EMVI và khối u nhìn thấy được qua nội soi tại thời điểm đánh giá giữa điều trị liên quan đến khả năng thấp hơn đạt được bảo tồn cơ quan.
- Sự tồn tại của EMVI, hạch dương tính và mrTRG 4-5 trên MRI tại thời điểm giữa điều trị còn liên quan đến DFS xấu hơn và có thể đóng vai trò là dấu hiệu nguy cơ cao để hướng dẫn tăng cường điều trị.
- Kết luận, nghiên cứu SHORT-FOX đã cho thấy xạ trị liệu trính ngắn với liều tăng cường theo sau bởi hóa trị bộ ba không làm tăng tỷ lệ cCR hoặc bảo tồn cơ quan ở bệnh nhân ung thư trực tràng nguy cơ cao so với đối chứng lịch sử, với ghi nhận kết quả kém hơn ở bệnh nhân ung thư trực tràng khởi phát sớm hoặc khối u T4.
- Các nghiên cứu trong tương lai có thể làm sáng tỏ hơn vai trò của việc tăng cường hóa trị và tích hợp các chỉ dấu hình ảnh và sinh học (MRI, ctDNA) để dự báo đáp ứng với điều trị và lựa chọn bệnh nhân phù hợp cho chiến lược bảo tồn cơ quan.