Nhóm tác giả: Jun Li M.D. , Ye-Ting Hu M.D. , Cheng-Cheng Liu PhD. , Liu-Hong Wang M.D. , Hai-Xing Ju M.D. , Xue-Feng Huang M.D. , Pan Chi M.D. , Jin-Lin Du M.D. , Jian-Ping Wang M.D. , Yi Xiao M.D. , Guo-Le Lin M.D. , Wei Zhang M.D. , Hong Zhao M.D. , Ming Liu M.D. , Yong-Mao Song M.D. , Dong Xu M.D. , Jian-Wei Wang M.D. , Li-Feng Sun M.D. , Hai-Ting Xie M.D. , Hong-Feng Cao M.S. , Qian Xiao M.D. , Jian Wang M.D. , Qing-Bin Wu M.D. ,De-Chuan Li M.D. , Sheng Dai M.D. , Wei-Zhong Jiang M.D. , Li Shen M.D. , Ying Yuan M.D. , Zi-Qiang Wang M.D. , Ke-Feng Ding M.D.
Kết quả nghiên cứu được đăng trên International Journal of Radiation Oncology, Biology, Physics (2024). https://doi.org/10.1016/j.ijrobp.2023.12.027
Hoá xạ trị đồng thời tân bổ trợ, theo sau bởi phẫu thuật, là một lựa chọn điều trị tiêu chuẩn cho ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ, với lợi ích giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ (6 – 13%). Tuy nhiên, xạ trị trước mổ đi kèm với nhiều tác dụng không mong muốn, bao gồm rối loạn chức năng cơ tròn, viêm ruột do tia xạ, rối loạn chức năng tình dục, làm xấu đi chất lượng cuộc sống của người bệnh. Cân của mạc treo trực tràng (MRF) được định nghĩa dương tính khi khối u xâm lấn MRF hay lan rộng trên vi thể đến sát MRF dưới 1mm (Tính cả khối u nguyên phát và hạch di căn), là một yếu tố dự báo nguy cơ tái phát tại chỗ và kết cục sống thêm.
Nghiên cứu MERCURY đã cho thấy giá trị của MRI trước mổ trong việc xác định tình trạng MRF. Trong nghiên cứu này, độ nhạy của dự báo MRF âm tính trên MRI đạt 94%. Hiệu quả của MRI trong dự báo MRF âm tính cũng đã được ghi nhận trong các nghiên cứu Quicksilver và OCUM với báo cáo tỷ lệ diện cắt vòng quanh (CRM) dương tính ở các bệnh nhân ung thư trực tràng có MRI trước mổ dự báo MRF âm tính lần lượt là 4,9% và 2,1%. Tỷ lệ tái phát sau 3 năm ở nhóm bệnh nhân có MRF âm tính trên MRI trong nghiên cứu OCUM là 2,2%. Dữ liệu từ MERCURY, Quicksilver cùng với OCUM khẳng định những bệnh nhân có MRI-MRF âm tính có tỷ lệ CRM dương tính và nguy cơ tái phát tại chỗ thấp. Tuy nhiên, chưa có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng chứng minh chiến lược phẫu thuật ngay bước đầu sẽ không thua kém điều trị tiêu chuẩn cho các bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ có diện cắt vòng quanh dự báo âm tính trên MRI. Hơn nữa, một số y văn đã đăng tải cho thấy một bộ phận phẫu thuật viên Trung Quốc ưa thích phẫu thuật bước đầu so với thực hiện sau một liệu trình bổ trợ trước mổ.
Mục tiêu: Trả lời câu hỏi liệu những bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ với cân của mạc treo trực tràng (Mesorectal fascia – MRF) được dự báo âm tính bởi cộng hưởng từ, có thể bỏ qua được liệu trình xạ trị trước mổ?
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đa trung tâm, nhãn mở, không kém hơn, tuyển chọn các bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ, khối u có cực dưới trong khoảng 6-12 cm từ rìa hậu môn (Trên MRI chuỗi xung T2, hình ảnh Sagittal), MRF âm tính trên MRI. Đối tượng nghiên cứu được phân ngẫu nhiên vào nhóm can thiệp (Phẫu thuật dẫn đầu, sau đó, những bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh diện cắt vòng quanh – CRM dương tính được chỉ định hoá xạ trị đồng thời, trong khi đó, những trường hợp CRM âm tính được quyết định hoá trị bổ trợ tuỳ theo giai đoạn bệnh sau mổ) hoặc nhóm đối chứng (Hoá xạ trị trước mổ, sau đó, phẫu thuật và hoá trị bổ trợ). Chỉ tiêu nghiên cứu chính là sống thêm không bệnh 3 năm (DFS).
Kết quả: Tổng số 275 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên: Nhóm can thiệp (n=140) và nhóm đối chứng (n=135), tương ứng lần lượt trong đó, 33,57% và 28,15% bệnh nhân có giai đoạn lâm sàng T4, 85,92% và 80,45% bệnh nhân được xếp loại nguy cơ xấu (Dựa trên hướng dẫn đánh giá nguy cơ tái phát của ESMO).
Chỉ có 2 (1,52%) và 1 (0,77%) trường hợp CRM dương tính ở nhóm can thiếp và đối chứng, p>0,05. Tỷ lệ không hoàn thành liệu trình điều trị dự kiến ở nhánh can thiệp và đối chứng lần lượt là 3,6% và 23,7%. Sau trung vị thời gian theo dõi 34,6 tháng (IQR: 18,2 – 45,7), 43 bệnh nhân được ghi nhận biến cố (28 ở nhóm can thiệp và 15 ở nhóm đối chứng). 6 (4,4%) bệnh nhân ở nhóm can thiệp xuất hiện tái phát tại chỗ, trong khi, không trường hợp nào được ghi nhận ở nhóm đối chứng, dẫn đến quyết định kết thúc thử nghiệm. Tỷ lệ DFS 3 năm được báo cáo 81,82% (95%CI: 78,18 – 85,46) ở nhóm can thiệp và 85,37% (95%CI: 81,75 – 88,99) ở nhóm đối chứng, với sự khác biệt -3,55% (95%CI: -3,71% – -3,39%), HR=1,76, 95%CI: 0,94 – 3,30. Trên dữ liệu theo phác đồ điều trị, sự khác biệt DFS 3 năm giữa 2 nhóm là -5,44% (95%CI: -5,63% – -5,25%), HR=2,02, 95%CI: 1,01-4,06.
Kết luận: Dựa trên kết quả của thử nghiệm này, với các bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ và MRF âm tính trên MRI, điều trị bước đầu với phẫu thuật có thể có tác động tiêu cực đến thời gian sống thêm không bệnh. Vì vậy, phẫu thuật bước đầu là một lựa chọn không được ưu tiên, so với hoá xạ trị trước mổ và phẫu thuật được thực hiện sau đó, cho các bệnh nhân ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ.